HOẠT ĐỘNG CỦA LÃNH ĐẠO BỘ

Thứ trưởng Nguyễn Tri Thức dự Ðại hội đại biểu Đảng bộ trường Đại học Y Dược Cần Thơ

Thứ Bẩy, ngày 16/08/2025 00:57

Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên dự Hội nghị đối thoại doanh nghiệp thiết bị y tế năm 2025

Thứ Sáu, ngày 15/08/2025 10:48

Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên: Kết hợp quân - dân y là chủ trương lớn, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh

Thứ Sáu, ngày 15/08/2025 04:24

Thứ trưởng Nguyễn Thị Liên Hương kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ được phân cấp về lĩnh vực y tế tại tỉnh Phú Thọ

Thứ Sáu, ngày 15/08/2025 04:03

Hội thảo khoa học quốc tế về dinh dưỡng học đường 2025: “Vì một Việt Nam khỏe mạnh – Vì tầm vóc Việt”

Thứ Năm, ngày 14/08/2025 13:01

Thứ trưởng Trần Văn Thuấn kiểm tra phân cấp, phân quyền về lĩnh vực y tế tại tỉnh An Giang

Thứ Năm, ngày 14/08/2025 12:49

Thứ trưởng Lê Đức Luận làm việc với Sở Y tế thành phố Đà Nẵng về triển khai hoạt động cơ sở y tế theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp

Thứ Năm, ngày 14/08/2025 12:40

Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Tri Thức: Chuyển đổi số là yêu cầu tiên quyết cho đổi mới, sáng tạo

Thứ Năm, ngày 14/08/2025 04:15

Bộ trưởng Đào Hồng Lan thăm, động viên đội ngũ cán bộ y tế phục vụ chương trình A80

Thứ Năm, ngày 14/08/2025 03:59

Thứ trưởng Lê Đức Luận kiểm tra mô hình công tác Y tế 2 cấp tại thành phố Huế

Thứ Năm, ngày 14/08/2025 03:09

Bộ trưởng Đào Hồng Lan cùng đoàn công tác kiểm tra, động viên lực lượng Hợp luyện A80 lần 3

Thứ Tư, ngày 13/08/2025 13:32

Bộ Y tế công bố quyết định công nhận Hội đồng trường và Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định nhiệm kỳ 2025-2030

Thứ Tư, ngày 13/08/2025 08:09

Viện Đào tạo Y học Dự phòng & Y tế Công cộng là “lá chắn dịch tễ” vững chắc của ngành Y tế

Thứ Ba, ngày 12/08/2025 01:37

Thủ tướng: Khẩn trương hoàn thiện, trình Bộ Chính trị hai nghị quyết đột phá về giáo dục – đào tạo và chăm sóc sức khỏe nhân dân

Thứ Hai, ngày 11/08/2025 14:12

Thành lập Hội Dược sĩ bệnh viện Việt Nam

Thứ Hai, ngày 11/08/2025 01:56

Văn phòng Bộ Y tế tổ chức hoạt động về nguồn tại Tuyên Quang

Thứ Hai, ngày 11/08/2025 01:50

Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn dự hội nghị nhãn khoa 2025

Thứ Bẩy, ngày 09/08/2025 11:06

Tổng hội Y học Việt Nam kỷ niệm 70 năm thành lập, tôn vinh trí thức tiêu biểu

Thứ Sáu, ngày 08/08/2025 16:11

Hội nghị toàn thể Ban điều phối Quốc gia Quỹ Toàn cầu phòng, chống AIDS, Lao và Sốt rét tại Việt Nam

Thứ Sáu, ngày 08/08/2025 01:43

Bộ trưởng Đào Hồng Lan: Cuộc thi Cơ sở y tế 'Xanh - Sạch - Đẹp' để cán bộ trong ngành thay đổi tích cực hơn trong quản trị, tư duy phục vụ người bệnh

Thứ Sáu, ngày 08/08/2025 01:13

Xuất bản thông tin Xuất bản thông tin

Dự phòng sinh non trong thai kỳ IVF – Những điều cha mẹ cần đặc biệt lưu ý

16/08/2025 | 08:20 AM

 | 

Sinh non là biến chứng sản khoa nguy hiểm, đặc biệt phổ biến ở các thai kỳ hỗ trợ sinh sản (IVF). Trong cuộc trò chuyện với phóng viên, Thạc sĩ, Bác sĩ Trịnh Văn Du – Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bưu Điện – đã chia sẻ nhiều thông tin quan trọng về cách dự phòng sinh non giúp mẹ và bé có một hành trình an toàn.

Thạc sĩ, Bác sĩ Trịnh Văn Du – Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bưu Điện tư vấn cho bệnh nhân.

PV: Thưa bác sĩ, vì sao thai kỳ hỗ trợ sinh sản lại có nguy cơ sinh non cao hơn so với thai tự nhiên?

Thạc sĩ, Bác sĩ Trịnh Văn Du: Trước tiên, cần hiểu rằng sinh non là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho trẻ dưới 5 tuổi và là nguyên nhân chính gây tử vong trong tháng đầu sau sinh. Với thai kỳ hỗ trợ sinh sản, nguy cơ sinh non cao hơn nhiều lần so với thai tự nhiên, kể cả khi chỉ mang thai đơn.

Lý do chủ yếu đến từ bản chất kỹ thuật hỗ trợ sinh sản: việc kích thích buồng trứng, chuyển nhiều phôi, điều trị nội tiết… đều có thể làm tăng tỷ lệ đa thai – yếu tố nguy cơ hàng đầu của sinh non. Ngoài ra, phụ nữ điều trị IVF thường lớn tuổi, có nhiều bệnh lý nền như tăng huyết áp, tiểu đường, tiền sử sinh non, dị dạng tử cung… cũng làm tăng nguy cơ.

PV: Việc chuyển nhiều phôi có phải nguyên nhân chính gây sinh non trong IVF không, thưa bác sĩ?

Thạc sĩ, Bác sĩ Trịnh Văn Du: Chuyển nhiều phôi chắc chắn làm tăng nguy cơ đa thai và kéo theo sinh non. Theo thống kê của các trung tâm IVF châu Âu, nếu chuyển 2 phôi, tỷ lệ đa thai có thể lên tới 20% và trong đó khoảng 30% sinh non.

Tại Bệnh viện Bưu Điện, từ năm 2018, chúng tôi đã áp dụng rộng rãi kỹ thuật chuyển một phôi ngày 5 với các trường hợp dưới 38 tuổi, có phôi tốt. Phương pháp này giúp giảm rõ rệt tỷ lệ đa thai mà vẫn đảm bảo tỷ lệ có thai cao – trung bình đạt 60%. Chuyển ít phôi không đồng nghĩa với giảm cơ hội làm cha mẹ, mà là tăng cơ hội sinh ra một đứa trẻ khỏe mạnh, đủ tháng, đủ ngày.

PV: Vậy những biện pháp nào giúp dự phòng sinh non trong thai kỳ IVF, đặc biệt với nhóm nguy cơ cao?

Thạc sĩ, Bác sĩ Trịnh Văn Du: Thứ nhất là đo chiều dài cổ tử cung – đây là chỉ số có giá trị tiên lượng sinh non mạnh nhất. Với thai IVF, việc đo cổ tử cung nên được thực hiện định kỳ: ở tuần 18–22 với tất cả thai phụ; ở tuần 14 với người có tiền sử sinh non trước 28 tuần hoặc đa thai; và tuần 16 nếu từng sinh non từ 28–36 tuần. Chiều dài cổ tử cung dưới 25mm được xem là ngắn, cần có can thiệp phù hợp.

Thứ hai là khâu vòng cổ tử cung – một thủ thuật phổ biến được áp dụng với những người có nguy cơ hở eo tử cung, tiền sử sinh non hoặc sẩy thai to. Tốt nhất nên thực hiện khâu vòng trong giai đoạn thai 14–18 tuần, tránh để quá muộn. Có thể thực hiện bằng đường âm đạo hoặc đường bụng tùy trường hợp.

Ngoài ra, đặt thuốc progesterone vi hạt âm đạo là biện pháp được chứng minh giúp giảm tỷ lệ sinh non ở cả nhóm nguy cơ thấp và cao. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy việc kết hợp progesterone với khâu cổ tử cung làm tăng hiệu quả phòng ngừa sinh non trước 37 tuần so với sử dụng đơn lẻ.

PV: Việc quan hệ tình dục có ảnh hưởng đến nguy cơ sinh non không, đặc biệt trong thai kỳ IVF?

Thạc sĩ, Bác sĩ Trịnh Văn Du: Mặc dù quan hệ tình dục trong thai kỳ được xem là an toàn với phần lớn phụ nữ, nhưng với những thai kỳ nguy cơ cao – như có tiền sử sinh non, cổ tử cung ngắn, đã khâu vòng tử cung… – thì nên hạn chế hoặc kiêng hẳn. Dù chưa có bằng chứng rõ ràng, nhưng tác động cơ học từ quan hệ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cổ tử cung vốn đã yếu. Với thai IVF, đặc biệt nên thận trọng.

Khi có thai, việc khám thai định kỳ tại cơ sở y tế có chuyên môn sản khoa là rất quan trọng. Bệnh nhân cần chủ động nhắc với bác sĩ về tiền sử sinh non (nếu có), bất thường tử cung, hay các yếu tố nguy cơ khác để có kế hoạch dự phòng.

PV: Vậy theo bác sĩ, khi nào thì thai phụ IVF nên bắt đầu theo dõi và quản lý nguy cơ sinh non?

Thạc sĩ, Bác sĩ Trịnh Văn Du: Ngay từ khi bắt đầu chu kỳ chuyển phôi, thai phụ đã cần được tư vấn đầy đủ về nguy cơ sinh non. Khi có thai, việc khám thai định kỳ tại cơ sở y tế có chuyên môn sản khoa là rất quan trọng. Bệnh nhân cần chủ động nhắc với bác sĩ về tiền sử sinh non (nếu có), bất thường tử cung, hay các yếu tố nguy cơ khác để có kế hoạch dự phòng.

Một điểm quan trọng là tự nhận thức về nhóm nguy cơ. Nhiều người chủ quan khi mang đơn thai, nhưng với IVF – kể cả đơn thai – vẫn được xếp vào nhóm thai kỳ nguy cơ cao. Do đó, dự phòng sinh non cần được xem là một phần bắt buộc trong quản lý thai IVF.

PV: Bác sĩ có lời khuyên nào dành cho các cặp vợ chồng đang hoặc chuẩn bị mang thai bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản?

Thạc sĩ, Bác sĩ Trịnh Văn Du: Điều đầu tiên, hãy lắng nghe tư vấn của bác sĩ về việc chuyển bao nhiêu phôi. Nếu bạn dưới 38 tuổi, có phôi tốt, hãy tin tưởng vào lựa chọn chuyển 1 phôi. Đó là lựa chọn an toàn hơn cho mẹ và bé.

Thứ hai, nếu đã có thai, cần theo dõi sát chiều dài cổ tử cung, xét nghiệm định kỳ và trao đổi thường xuyên với bác sĩ quản lý thai. Đừng bỏ qua các dấu hiệu như đau bụng, ra máu âm đạo hoặc áp lực vùng chậu.

Cuối cùng, hiểu rằng dự phòng sinh non là hành trình chủ động. Sự cẩn trọng, kiến thức và hợp tác tốt giữa thai phụ và bác sĩ là chìa khóa giúp thai kỳ IVF diễn ra thuận lợi, an toàn và em bé được chào đời đủ tháng, đủ ngày.

Xin cảm ơn bác sĩ!


Thăm dò ý kiến