Sửa đổi Luật Dược: Khắc phục những bát cập, hạn chế về đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc
12/04/2024 | 14:04 PM



Tại phiên họp thẩm tra sơ bộ về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược, đại diện cơ quan soạn thảo cho biết, việc sửa đổi Luật căn cứ vào nhiều cơ sở thực tiễn, đặc biệt là việc sửa đổi này sẽ khắc phục những bất cập, hạn chế liên quan về đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc, đảm bảo phù hợp chủ trương cải cách hành chính
Trình bày Tờ trình tại phiên họp thẩm tra sơ bộ, đại diện cơ quan soạn thảo cho biết, Luật Dược được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 06/4/2016, thay thế cho Luật Dược năm 2005, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về dược tại Việt Nam, cơ bản phù hợp với sự phát triển của ngành dược trong xu thế hội nhập quốc tế. Theo đó, Luật Dược 2016 ra đời đã điều chỉnh toàn diện các vấn đề liên quan đến chính sách của Nhà nước về dược và phát triển công nghiệp dược; hành nghề dược; kinh doanh dược; đăng ký, lưu hành, thu hồi thuốc và nguyên liệu làm thuốc; dược liệu và thuốc cổ truyền; đơn thuốc và sử dụng thuốc; thông tin thuốc, cảnh giác dược và quảng cáo thuốc; dược lâm sàng; quản lý thuốc trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; thử thuốc trên lâm sàng và thử tương đương sinh học của thuốc; quản lý chất lượng thuốc, nguyên liệu làm thuốc và quản lý giá thuốc.
Luật Dược đã góp phần tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, người dân cơ bản đã được bảo đảm cung ứng đủ thuốc có chất lượng với giá cả hợp lý, ngành công nghiệp dược trong nước đạt mức độ phát triển ở trình độ cao, đạt cấp độ 3,5 theo thang phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có giá trị thị trường trong tốp 3 ASEAN, góp phần bảo đảm cung ứng đầy đủ, kịp thời thuốc có chất lượng, an toàn, hiệu quả và giá hợp lý; huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên trình bày Tờ trình
Sau hơn 07 năm triển khai thi hành Luật, ngành dược đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, các quy định của pháp luật về dược đã tạo cơ sở pháp lý sự phát triển theo hướng công khai, minh bạch, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu. Thông qua các cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật về dược đã được ban hành, ngành dược Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ góp phần vào công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn, hệ thống pháp luật về dược đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, cụ thể: Một số quy định liên quan về đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc đã bộc lộ bất cập và chưa phù hợp chủ trương cải cách hành chính
Về hồ sơ, trình tự, thủ tục gia hạn hiệu lực giấy đăng ký lưu hành (Giấy ĐKLH) đối với thuốc, nguyên liệu làm thuốc: Khoản 1 Điều 56 Luật Dược quy định tất cả các thuốc sau khi hết hạn hiệu lực Giấy ĐKLH thì đều phải nộp lại hồ sơ gia hạn và các hồ sơ này đều phải trải qua quá trình thẩm định, xét duyệt của Hội đồng tư vấn cấp Giấy đăng ký lưu hành. Quy định này của Luật Dược đã góp phần giúp cho việc quản lý thuốc có chất lượng, an toàn và hiệu quả.
Tuy nhiên, chỉ phù hợp với các thuốc trong quá trình lưu hành có vấn đề về chất lượng hoặc an toàn cần phải đánh giá lại trước khi gia hạn hiệu lực Giấy ĐKLH. Đối với thuốc trong thời gian lưu hành trên thị trường không nhận được những phản ánh liên quan đến chất lượng, an toàn cho người sử dụng hoặc không có khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới thì việc thẩm định, xét duyệt lại hồ sơ gia hạn của Hội đồng tư vấn là không cần thiết vì nếu phải chờ thẩm định, phê duyệt để tiếp tục được gia hạn hiệu lực Giấy ĐKLH có thể làm gián đoạn việc lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc trên thị trường dẫn đến đứt gãy nguồn cung tạm thời đồng thời gây quá tải cho Hội đồng tư vấn, gây ách tắc, chậm cấp phép và tồn đọng hồ sơ.
Thường trực Ủy ban Xã hội thẩm tra sơ bộ dự án Luật Dược (sửa đổi)
Khoản 3 Điều 56 Luật Dược quy định hồ sơ gia hạn hiệu lực Giấy ĐKLH phải nộp 06 loại tài liệu, chủ yếu là các tài liệu về hành chính, Luật Dược quy định nộp một số tài liệu này trong bối cảnh việc cấp phép lưu hành lần đầu trước đây chưa áp dụng hệ thống cấp giấy phép lưu hành thuốc trực tuyến (online). Hiện nay, Bộ Y tế đã triển khai hệ thống cấp phép trực tuyến và trong thời gian tới sẽ liên thông cơ sở dữ liệu được quốc gia thì hoàn toàn tra cứu lại được các tài liệu này nên không cần thiết phải yêu cầu nộp lại. Việc phải nộp nhiều tài liệu trong hồ sơ đã dẫn đến lãng phí thời gian, nguồn lực cho doanh nghiệp khi chuẩn bị hồ sơ cũng như tạo áp lực cho cơ quan quản lý trong việc phải thẩm định, xét duyệt hồ sơ.
Về trình tự, thủ tục cho phép thay đổi, bổ sung Giấy ĐKLH thuốc, nguyên liệu làm thuốc, khoản 1 Điều 56 Luật Dược quy định việc thay đổi, bổ sung Giấy ĐKLH thuốc, nguyên liệu làm thuốc phải thông qua thẩm định hồ sơ, tư vấn của Hội đồng tư vấn cấp Giấy ĐKLH thuốc, nguyên liệu làm thuốc. Quy định này của Luật Dược cũng giúp cho việc quản lý thuốc có chất lượng, an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, quy định về trình tự, thủ tục này là không cần thiết đối với các trường hợp chỉ thay đổi về hành chính đơn giản (thay đổi địa chỉ thư tín, thay đổi cách viết tên, địa chỉ cơ sở sản xuất, đăng ký thuốc, bổ sung mã QR, barcode...) không liên quan đến chuyên môn kỹ thuật, an toàn, hiệu quả của thuốc, gây lãng phí thời gian cho doanh nghiệp đồng thời tạo áp lực về thời gian giải quyết thủ tục hành chính cho cơ quan quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, quy định này cũng chưa hội nhập với các nước trên thế giới, trong khu vực (giao cho cơ sở tự công bố, chịu trách nhiệm hoặc chỉ cần thông bảo cho cơ quan quản lý nhà nước để hậu kiểm...). Vì vậy, cần thiết phải phân hóa cụ thể các trường hợp thay đổi, bổ sung để quy định trình tự, thủ tục tương ứng nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và phù hợp thông lệ quốc tế.
Các đại biểu nghiên cứu tài liệu tại phiên họp
Về thử thuốc trên lâm sàng đối với thuốc khi đăng ký lưu hành đối với thuốc dược liệu có sự kết hợp mới của dược liệu đã từng sử dụng làm thuốc tại Việt Nam, điểm b khoản 1 Điều 89 quy định thuốc thuốc dược liệu có sự kết hợp mới của dược liệu đã từng sử dụng làm thuốc tại Việt Nam và có chỉ định đối với các bệnh thuộc danh mục do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành phải thử lâm sàng đầy đủ các giai đoạn khi đăng ký lưu hành.
Quy định này có 02 cách hiểu khác nhau trong việc xác định trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Y tế về ban hành danh mục thuốc cổ truyền có sự kết hợp mới của dược liệu đã từng sử dụng làm thuốc tại Việt Nam hay Danh mục các bệnh chỉ định, đã dẫn đến khó khăn trong quá trình hướng dẫn triển khai thi hành Luật Dược, vì: Khoản 7 Điều 2 Luật Dược quy định thuốc dược liệu là thuốc có thành phần từ dược liệu và có tác dụng dựa trên bằng chứng khoa học. Theo đó, các thuốc dược liệu mới hoặc thuốc có sự kết hợp mới của dược liệu đã được lưu hành, sử dụng muốn đăng ký chỉ định mới thì phải có đầy đủ dữ liệu lâm sàng đáp ứng các quy định chung về thử nghiệm lâm sàng của WHO, EMA, US-FDA...
Theo quy định của quốc tế, về nguyên tắc, các yêu cầu khi đăng ký lưu hành đối với thuốc dược liệu là tương tự như thuốc hỏa dược. Hiện nay, chưa có cơ quan quản lý nào ban hành danh mục chỉ định đối với thuốc dược liệu để yêu cầu phải thử lâm sàng đầy đủ các giai đoạn. Vì vậy, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 89 không phù hợp với quy định của Việt Nam và của Quốc tế, cần thiết phải bãi bỏ.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Hoàng Mai đề nghị tiếp tục đánh giá tác động đối với những chính sách mới của Dự án Luật
Tại phiên họp thẩm tra sơ bộ, cơ quan thẩm tra tán thành sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược căn cứ vào cơ sở chính trị, pháp lý và cơ sở thực tiễn như Tờ trình của cơ quan soạn thảo. Tuy nhiên cơ quan thẩm tra đề nghị tiếp tục đánh giá tác động đối với những chính sách mới của Dự án Luật; đảm bảo việc đánh giá tác động này phản ánh chi tiết, cụ thể sự ảnh hưởng của chính sách đối với từng vấn đề có liên quan./.
Nguồn: Quochoi.vn
Tin liên quan
- Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan tham dự Hội nghị tiếp xúc cử tri chuyên đề tại Bắc Ninh
- 'Phải tổ chức thực hiện, làm sao y dược cổ truyền thực sự phát triển đúng tầm'
- Tiếp tục nỗ lực để sớm đạt mức độ 3, tiến tới mức độ 4 hệ thống sản xuất quốc gia Việt Nam về thuốc, vắc xin
- Họp Ban chỉ đạo thực hiện Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW ngày 19/6/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương
- Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan tiếp và làm việc với UNICEF
- Bộ trưởng Đào Hồng Lan trao Quyết định bổ nhiệm cán bộ của Bộ Y tế
- Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên làm việc tại Thành phố Cần Thơ
Xuất bản thông tin
Ngăn các mối nguy mất an toàn thực phẩm đe dọa sức khỏe người dân
08/11/2024 | 16:04 PM



Trung tâm Đánh giá nguy cơ về an toàn thực phẩm vừa được thành lập. Đây là bước đi có tính chiến lược và kịp thời trong đảm bảo an toàn thực phẩm cho người dân theo hướng quản lý dựa trên nguy cơ.
Tăng số lượng và các ca ngộ độc thực phẩm
Theo thống kê của Bộ Y tế, trong 9 tháng năm 2024, cả nước đã xảy ra 111 vụ ngộ độc thực phẩm, tăng 2 vụ so với 9 tháng năm 2023. Ngoài ra, số người bị ngộ độc thực phẩm tăng hơn 2 lần, số vụ có người mắc (trên 30 người) cũng tăng.
Nguyên nhân gây ra các vụ ngộ độc qua xét nghiệm có vụ do vi sinh vật Salmonela trong thịt nguội, trong các món gà, trong thịt lợn đã qua chế biến, chả lụa hay vi sinh vật Bacillus cereus trong canh chua thịt giá đỗ, vi sinh vật Staphylococus aureus trong Mì Quảng…
Theo thống kê của Bộ Y tế, trong 9 tháng năm 2024, cả nước đã xảy ra 111 vụ ngộ độc thực phẩm.
Từ các vụ ngộ độc nói trên cho thấy, việc thực hiện các quy định về bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm của một bộ phận chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa đầy đủ, thường xuyên.
Qua kiểm tra, có cơ sở không có đăng ký kinh doanh, không có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, không có giấy xác nhận tập huấn kiến thức về an toàn thực phẩm và không thực hiện khám sức khỏe định kỳ cho người tham gia sản xuất, chế biến...
Thậm chí, có cơ sở không thực hiện kiểm thực 3 bước và lưu mẫu thức ăn theo quy định; không cung cấp được các hợp đồng và giấy tờ liên quan đến nguồn gốc nguyên liệu thực phẩm.
Theo TS.Nguyễn Thị Phúc, nhóm An ninh Y tế và các tình trạng Y tế Công cộng khẩn cấp, Văn phòng Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại Việt Nam đã chỉ ra 31 mối nguy hiểm từ thực phẩm như: Norovirus, vi khuẩn Campylobacter spp, Non-typhoidal S. enterica, Enteropathogenic E.coli (EPEC), Enterotoxigenic E. coli (ETEC)…
Không chỉ tại Việt Nam, ngay cả những nước phát triển trên thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…, hàng năm vẫn ghi nhận các vụ ngộ độc thực phẩm. Chỉ tính riêng trong năm 2010, thế giới có khoảng 600 triệu ca bệnh và 420 nghìn ca tử vong do 31 mối nguy thực phẩm gây ra.
Theo các chuyên gia, các sự cố mất an toàn thực phẩm thời gian gần đây cho thấy vẫn còn những mối nguy hiện diện trong các sản phẩm thực phẩm tiêu thụ hằng ngày.
PGS-TS.Lê Thị Hồng Hảo, Viện trưởng Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia nói rằng, các mối nguy sinh học, hóa học trong thực phẩm được đánh giá là có gây ra ngộ độc cấp tính như vi sinh vật gây bệnh, độc tố tự nhiên, dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc thú y, phụ gia thực phẩm dùng quá liều lượng… hoặc tích lũy trong cơ thể gây ra ngộ độc mãn tính.
Các mối nguy có thể xuất phát từ quá trình sản xuất, nuôi trồng, quá trình bảo quản (như độc tố vi nấm, vi sinh vật…), đến quá trình lưu thông, phân phối và cả trong quá trình chế biến, sử dụng.
Đột phá các giải pháp ngăn thực phẩm bẩn tới tay người tiêu dùng
Nhận thấy tầm quan trọng của công tác đánh giá nguy cơ trong việc hỗ trợ cho công tác quản lý an toàn thực phẩm, Bộ Y tế quyết định thành lập Trung tâm đánh giá nguy cơ về an toàn thực phẩm.
Đây được xem như bước đi có tính chiến lược và kịp thời trong đảm bảo an toàn thực phẩm cho người dân theo hướng quản lý dựa trên nguy cơ.
Theo đó, Trung tâm đánh giá nguy cơ về an toàn thực phẩm thuộc Viện Kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia được thành lập theo quyết định số 1936/QĐ-BYT ngày 8/7/2024.
Trung tâm có chức năng xác định và đánh giá nguy cơ đối với sức khỏe gây ra bởi các tác nhân hóa học, sinh học, các tác nhân khác trong thực phẩm và các sản phẩm liên quan; tham mưu công tác quản lý nguy cơ và truyền thông nguy cơ về an toàn thực phẩm.
Mặt khác, Trung tâm tham gia xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; xây dựng mạng lưới thu thập - tổng hợp thông tin, dữ liệu; đào tạo, hợp tác trong nước và quốc tế về đánh giá nguy cơ an toàn thực phẩm theo quy định.
Nhiệm vụ của Trung tâm là xác định và đánh giá nguy cơ về an toàn thực phẩm; tham gia xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn; xây dựng mạng lưới thu thập - tổng hợp thông tin, dữ liệu; đào tạo - hợp tác trong nước và quốc tế; tham mưu công tác quản lý an toàn thực phẩm.
Để triển khai có hiệu quả các mục tiêu bảo đảm an toàn thực phẩm đề ra, Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên đã nhấn mạnh đến 5 nhóm nhiệm vụ mà Trung tâm Đánh giá nguy cơ về an toàn thực phẩm cần thực hiện sau khi đi vào hoạt động, gồm: Đào tạo nguồn nhân lực; thực hiện các nghiên cứu, đánh giá nguy cơ trong chuỗi cung ứng thực phẩm; tham gia xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn thực phẩm; xây dựng mạng lưới thu thập dữ liệu và thông tin về an toàn thực phẩm trên toàn quốc; trở thành cầu nối tham mưu cho công tác quản lý về an toàn thực phẩm.
Cùng với việc ưu tiên phát triển nguồn lực chất lượng cao cho Trung tâm, tiếp cận các tiến bộ công nghệ và kiến thức quốc tế, Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia cần chủ động đề xuất và thực hiện các nghiên cứu đánh giá đối với các mối nguy tiềm ẩn trong chuỗi cung ứng thực phẩm, từ khâu sản xuất đến phân phối và tiêu dùng. Từ đó đưa ra các cảnh báo sớm và phòng ngừa kịp thời các nguy cơ gây hại cho sức khỏe cộng đồng.
Nhằm phục vụ việc đánh giá nguy cơ về an toàn thực phẩm có hiệu quả, theo Bộ Y tế, Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia cần xây dựng mạng lưới thu thập dữ liệu và thông tin về an toàn thực phẩm trên toàn quốc.
Mạng lưới này không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện và phân tích các nguy cơ mà còn cung cấp thông tin cần thiết cho các cơ quan quản lý, giúp nâng cao hiệu quả công tác giám sát.
Bên cạnh đó, Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia cần tạo điều kiện để Trung tâm Đánh giá nguy cơ tích cực tham gia vào công tác xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn thực phẩm.
Vấn đề này rất quan trọng để thiết lập các quy định chặt chẽ và phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam cũng như hài hòa với các tiêu chuẩn quốc tế. Đây cũng sẽ là cơ sở để kiểm soát tốt hơn chất lượng và an toàn thực phẩm, đồng thời tăng cường lòng tin của người dân vào các sản phẩm tiêu thụ trong nước.
Nguồn: Báo Đầu tư
Ngăn các mối nguy mất an toàn thực phẩm đe dọa sức khỏe người dân
Phòng Truyền thông Y tế
Tin liên quan
- Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan tham dự Hội nghị tiếp xúc cử tri chuyên đề tại Bắc Ninh
- Khám ngoài giờ: Những nỗ lực vì sự tiện lợi cho người bệnh
- Phát hiện giun dài 8cm từ mụn trên ngực bệnh nhân 23 tuổi
- Kê đơn thuốc dài ngày theo Thông tư 26: Bước tiến vì người bệnh mạn tính
- Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí: Góp phần chăm sóc tốt nhất cho sức khỏe trẻ em
- Đại tiện ra máu suốt 2 tháng, người phụ nữ phát hiện ung thư di căn
- Thiếu niên 14 tuổi liệt nửa người vì căn bệnh 'người già'